Phân tích tội cướp tài sản theo quy định của pháp luật hiện hành

PHÂN TÍCH TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

1. Căn cứ pháp lý của tội cướp tài sản

Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cướp tài sản như sau:

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn ng lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

2. Cấu thành tội phạm

a. Chủ thể của tội phạm

Người phạm tội cướp tài sản phải là người đủ từ 14 tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

b. Khách thể của tội phạm

Hành vi cướp tài sản xâm hại đồng thời hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đó là quan hệ nhân thân và quan hệ sở hữu.

Bằng hành vi phạm tội của mình, người phạm tội cướp tài sản xâm phạm trước hết đến thân thể, đến tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm được sở hữu. Nếu chỉ xâm hại một trong hai quan hệ xã hội này thì không phải là hành vi cướp tài sản mà có thể sẽ cấu thành tội phạm khác.

c. Mặt khách quan của tội phạm

* Hành vi

Điều luật quy định 03 dạng hành vi khách quan của tội cướp tài sản. Đó là:

– Hành vi dùng vũ lực;

– Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc;

– Hành vi (khác) làm cho người bị tấn ng lâm vào tình trạng không thể chống cự được.

Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh (có hoặc không có ng cụ, phương tiện phạm tội) tác động vào người khác nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người này chống lại việc chiếm đoạt.

Dạng hành vi thứ hai của tội cướp tài sản là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc. Đây là trường hợp người phạm tội bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) dọa sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc nếu chống cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị đe dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thích với người bị đe dọa.

Dạng hành vi khách quan thứ ba của tội cướp tài sản là hành vi (khác) làm cho người bị tấn ng lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Hành vi ở dạng thứ ba này tuy không phải là dùng vũ lực cũng như không phải là lời đe dọa… nhưng có khả năng như những hành vi đó – khả năng làm cho người bị tấn ng không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Do vậy, những hành vi này được coi là cùng tính chất như hành vi dùng vũ lực và hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc.

* Hậu quả

Do khách thể của tội cướp là hai quan hệ xã hội (quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân) nên tội cướp tài sản được gọi là tội ghép và do đó hậu quả của tội cướp tài sản có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc cả hai.

Đối với tội cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.

d. Mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.

Cả ba dạng hành vi phạm tội của tội cướp tài sản được nêu trên đều thể hiện lỗi của người phạm tội cướp tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội biết mình có hành vi dùng vũ lực hoặc biết mình có hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc biết mình có hành vi làm cho người bị tấn ng lâm vào tình trạng không thể kháng cự được. Người phạm tội mong muốn hành vi được thực hiện đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người bị tấn ng.

Mục đích phạm tội được quy định là mục đích chiếm đoạt tài sản. Khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc hành vi làm cho người bị tấn ng lâm vào tình trạng không thể kháng cự được, người phạm tội có mục đích chiếm đoạt tài sản.

Mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt được cũng được coi là dạng đặc biệt của mục đích chiếm đoạt tài sản.

Trên đây là những phân tích của Luật Trung Quân về tội cướp tài sản. Nếu có vấn đề vướng mắc trong quá trình tìm hiểu về tội cướp tài sản hoặc cần giải đáp, hỗ trợ pháp lý, bạn hãy gọi: 098.98.151.98 để được Luật Trung Quân tư vấn.

 

Related Posts

Leave a Reply